Mô hình phát triển trên thế giới,ợptácgiáodụccôherpes môi người hưởng lợi là học sinh
TS kinh tế Trần Vinh Dự, thành viên Hội Kế toán viên Công chứng Úc (CPA Australia) và Hiệp hội Kinh tế Mỹ (AEA) chia sẻ: Cuộc thảo luận liên quan đến giáo dục tự chọn ở trường công và việc tham gia của các đơn vị thuê ngoài là một cuộc thảo luận thú vị. Nó cũng có nhiều ngụ ý chính sách có thể rút ra để các trường công làm tốt hơn việc này, đem lại lợi ích cao hơn cho học sinh. Thí dụ vấn đề làm thế nào để đảm bảo tự chọn thực sự là tự chọn, hay việc triển khai thuê ngoài, đấu thầu như thế nào cho minh bạch và hiệu quả, việc quản lý giám sát thế nào để chất lượng càng ngày càng được nâng cao…
Ông đưa ví dụ về Phần Lan, một quốc gia nổi tiếng về nền giáo dục xuất sắc. Ngay cả trong môi trường đông đúc, việc họ tập trung vào việc học tập cá nhân hóa, cùng với các phương pháp giảng dạy hiệu quả, đảm bảo kết quả giáo dục cao. Nếu Việt Nam áp dụng các chiến lược tương tự, chẳng hạn như bố trí các lớp học xen kẽ hoặc học tập kết hợp, tình trạng quá tải có thể được quản lý một cách hiệu quả.
Ở Hoa Kỳ, các trường bán công (về cơ bản được tài trợ bằng ngân sách nhà nước nhưng do tư nhân quản lý vận hành) thường hoạt động tốt hơn các trường công lập truyền thống do có phương pháp giảng dạy và chương trình giảng dạy sáng tạo. Việt Nam có thể đặt ra các tiêu chuẩn nghiêm ngặt tương tự, đảm bảo rằng các buổi học do tổ chức giáo dục tư nhân dạy sẽ mang lại phương pháp giảng dạy chất lượng cao và sáng tạo cho các trường công lập.
Ông Dự cũng khẳng định: Vấn đề đạo đức của khu vực tư nhân khi kiếm lợi từ các trường công đáng được giám sát kỹ. Tuy nhiên, tư nhân cung cấp dịch vụ thì họ cần phải có lợi nhuận. Nhà trường tham gia hỗ trợ điều phối, quản lý, giám sát, gánh các chi phí phát sinh như điện nước văn phòng phẩm… thì cũng cần được bù đắp các chi phí này. Vì thế việc tư nhân thì có lợi nhuận và nhà trường cũng có nguồn thu để bù đắp chi phí phát sinh là việc bình thường, hợp lý.
Vấn đề chỉ là lợi nhuận thế nào là hài hòa, tương xứng với chất lượng mà học sinh được nhận. Việc hợp tác giữa nhà trường và các cơ sở cung cấp dịch vụ nếu được thực hiện trên cơ sở thầu công khai, minh bạch, có giám sát, kiểm tra đầy đủ, định kỳ, thì những quan ngại dạng này sẽ tự động biến mất.
Chúng ta có thể nhìn vào mô hình của Vương quốc Anh, trong đó quan hệ đối tác công - tư trong giáo dục đòi hỏi phải có sự đánh giá theo giá trị đồng tiền bỏ ra. Điều này đảm bảo rằng mặc dù các tổ chức tư nhân có thể kiếm được lợi nhuận nhưng họ cũng phải chịu trách nhiệm cung cấp những cải tiến giáo dục hữu hình. Việc thực hiện những đánh giá như vậy ở Việt Nam có thể đảm bảo sự cân bằng công bằng giữa lợi nhuận và chất lượng giáo dục.
Đưa cho học sinh nhiều lựa chọn
TS Trần Vinh Dự cho biết: Mô hình dạy liên kết đã được chứng minh trên thế giới từ lâu là mang lại hiệu quả giáo dục cao.
Ở Úc đưa ra nhiều lựa chọn trong các hoạt động sau giờ học. Phụ huynh và học sinh được cung cấp thông tin tóm tắt chi tiết và các lựa chọn, đảm bảo họ chọn tham gia các chương trình theo sự lựa chọn chứ không bị ép buộc. Nếu Việt Nam có thể triển khai một hệ thống lựa chọn minh bạch tương tự có thể sẽ đảm bảo cho học sinh và phụ huynh đưa ra quyết định sáng suốt. Trao quyền không tham gia là một quyền cần phải được tôn trọng cả về mặt nguyên tắc lẫn trong thực tế.
Việc áp dụng ở các trường công lập Việt Nam bước đầu cũng đã cho thấy giúp giải quyết được nhiều vấn đề, chẳng hạn như các môn học tăng cường, ngoại khóa, năng khiếu... Tất nhiên, nhà trường công lập đã làm được một việc lớn, đó là dạy các tiết chính khóa cho hàng chục triệu học sinh phổ thông.
"Quan trọng là cần minh bạch và đàng hoàng, giám sát và kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt. Công ty nào làm tốt phải được duy trì, bên nào chất lượng không đảm bảo, có dấu hiệu trục lợi học sinh, hối lộ tham nhũng, phải bị cấm. Học sinh và phụ huynh phải thực sự được trao quyền tự chủ lựa chọn, phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng riêng biệt của từng gia đình" - TS Trần Vinh Dự nói.
TS Trần Vinh Dự chia sẻ thêm rằng: Các trường công lập ở Việt Nam hiện đang phục vụ quy mô lớp học từ 45-50 học sinh. Đây là một vấn đề phổ biến, và nó không liên quan đến giáo dục tự chọn hay là việc dùng nhà thầu tư nhân để dạy môn tự chọn. Nó là vấn đề đô thị hóa nhanh, vấn đề quá tải hệ thống giáo dục do không phát triển và mở rộng hạ tầng giáo dục kịp, nó cũng là thách thức của đầu tư công cho giáo dục.
Cần những đơn vị tư nhân tiên phong
Tuy nhiên nói thế không có nghĩa là cứ phải chịu đựng chất lượng kém do lớp quá đông. Nhiều quốc gia khác cũng gặp vấn đề tương tự, thậm chí nặng hơn, và họ cũng phải tìm cách để giải quyết.
Ở Việt Nam đã có một vài đơn vị tư nhân đi tiên phong trong việc áp dụng các giải pháp mới để khắc phục tình trạng này. Thí dụ sử dụng các sáng kiến giảng dạy mới như chuyển đổi kỹ thuật số, nội dung số, học tập kết hợp (ảo, trực tuyến), các phương pháp đổi mới để quản lý hiệu quả quy mô lớp học và nâng cao trải nghiệm học tập.
iSMART Education (thành viên Tập đoàn Giáo dục EQuest) đã và đang áp dụng chuyển đổi số, nội dung số, học tập kết hợp (ảo, trực tuyến, trực tiếp kết hợp trực tuyến), phần mềm quản trị lớp học, từ đó nâng cao trải nghiệm học tập.
Hiện nay iSMART là đơn vị công nghệ giáo dục tại Việt Nam được kiểm định chất lượng giáo dục toàn diện bởi tổ chức kiểm định quốc tế Cognia (Hoa Kỳ), giúp các trường có thể tiếp cận các chương trình giáo dục chuẩn quốc tế ngay tại Việt Nam.
Ông Bạch Ngọc Chiến, Phó Chủ tịch Tập đoàn Giáo dục EQuest cho hay: Giáo dục là một quá trình và chất lượng có thể kiểm chứng được. Chúng tôi luôn đầu tư cho việc nâng cao chất lượng qua việc đặt ra các tiêu chuẩn cao, tham gia kiểm định, áp dụng các phương pháp giáo dục hiện đại nhất, các công nghệ mới nhất và nguồn lực được đào tạo tốt nhất có thể.
Muốn các môn học tự chọn thực sự là tự chọn, thì chúng ta cần tạo ra không gian cởi mở, bình đẳng tạo điều kiện để các bên cung cấp dịch vụ giáo dục đưa những môn học tự chọn tốt vào nhà trường công lập. Khi ấy, tất cả các bên đều có lợi, đặc biệt là những trụ cột của nước nhà trong tương lai.